Quá trình toàn cầu hóa cùng với sự phát triển nhanh chóng của thị trường vốn quốc tế đòi hỏi phải nâng cao chất lượng thông tin tài chính, đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư. Do sự khác nhau về môi trường văn hóa, hệ thống pháp lý, chính trị, quá trình hình thành và phát triển các hội nghề nghiệp, mỗi quốc gia đều có các tổ chức thiết lập hệ thống chuẩn mực riêng. Báo cáo tài chính của các quốc gia khác nhau được lập theo các chuẩn mực khác nhau. Từ đó cung cấp các kết quả khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì thế yêu cầu phải thiết lập một hệ thống chuẩn mực kế toán “chuẩn” luôn được xem là một vấn đề vô cùng bức thiết trong bối cảnh thương mại quốc tế hiện nay.
1. Kế toán Quốc tế – Harmonization” and “Convergence”
Mục tiêu ban đầu của các tổ chức kế toán quốc tế là hòa hợp quốc tế về kế toán, đi tìm các chuẩn mực lý tưởng cho thế giới. Tuy nhiên quá trình này chỉ diễn ra trong bước đầu, sau đó con đường hòa hợp kế toán quốc tế chuyển sang hội tụ kế toán quốc tế. Lý do thực chất quá trình hòa hợp vẫn là cuộc đấu tranh để giành vị trí của các hệ thống kế toán của tổ chức nghề nghiệp các quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh.
Tuy nhiên, hội tụ kế toán quốc tế từ chuẩn mực đến thực tiễn đầy thử thách, vẫn còn một khoảng cách nhất định để đạt được mục tiêu chung nhằm xây dựng chuẩn mực quốc tế chất lượng cao. Quá trình đó là bài toán phức tạp và nan giải bởi chúng xuất phát từ nhiều nguyên do khác nhau về môi trường kinh doanh, pháp lý và văn hóa trong mỗi quốc gia. Do đó, xu thế hội tụ kế toán của một số quốc gia có thể thống nhất trong chuẩn mực nhưng chưa hoàn toàn nhất quán trong thực tế.
Vì vậy, mỗi quốc gia trên thế giới chọn cho mình một cách tiếp cận với chuẩn mực kế toán quốc tế riêng. Ví dụ:
+ Chấp nhận chuẩn mực kế toán quốc tế là chuẩn mực của quốc gia: là cách áp dụng toàn văn hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế. Đây là cách làm của một số quốc gia như Nigeria, Malaysia, Singapore.
+ Dựa trên chuẩn mực kế toán quốc tế để hình thành chuẩn mực quốc gia: sử dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế làm cơ sở để xây dựng, sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với đặc điểm riêng của từng quốc gia.
+ Tự phát triển các chuẩn mực quốc gia và điều chỉnh dần khoảng cách với chuẩn mực quốc tế. Đây là trường hợp tại các quốc gia có nền kinh tế mạnh trên thế giới, nhóm Châu Âu lục địa và Anglo – Saxon. Các quốc gia này đã có sẵn hệ thống chuẩn mực riêng, và chúng ra đời trước khi có chuẩn mực kế toán quốc tế. Vì vậy, họ chỉ cần sửa đổi để hòa hợp.
(A Roadmap for Convergence between IFRSs and US.GAAP – 2006-2008: Memorandum of Understanding between the FASB and the IASB (2006), International Accounting Standards Board. , 2006-2008, 2006-2008)
Trong những năm gần đây, Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) và hệ thống chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS đã tiến được những bước quan trọng trong quá trình hội tụ kế toán toàn cầu. Ví dụ:
+ Tháng 01 năm 2005, Ủy Ban Giao Dịch Chứng Khoán Liên Minh Châu Âu đã yêu cầu tất cả các công ty Châu Âu niêm yết trên thị trường Châu Âu phải lập BCTC hợp nhất theo IFRS. Mười hai quốc gia còn lại không thuộc nhóm Liên minh Châu Âu như Úc, Hồng Kông, Israel và New Zealand, … cũng đang hội tụ một phần hay hoàn toàn chuẩn mực của họ với IFRS.
+ Vào tháng 01 năm 2006, Ủy ban chuẩn mực kế toán Canada cũng đã thông qua một kế hoạch 5 năm hội tụ GAAP Canada với IFRS.
+ Hiệp ước Norwalk năm 2002 giữa FASB và IASB đã chính thức hóa cho cam kết hội tụ kế toán giữa hai bên. Theo hiệp ước này, FASB và IASB cam kết sẽ nỗ lực hết mình để: Làm cho các chuẩn mực báo cáo tài chính hiện hữu của họ hòa hợp nhau khi thực hiện. Cùng nhau hợp tác trong những dự án nghiên cứu trong tương lai, tiếp tục những dự án chung để đảm bảo luôn đạt được sự tương thích, hòa hợp. Ưu tiên loại bỏ những khác nhau giữa US GAAP và IFRS trong cả ngắn hạn và dài hạn.
2. Quan hệ giữa chuẩn mực kế toán quốc tế với một số các quốc gia
Liên minh Châu Âu Liên minh Châu Âu (EU)
EU giữ vai trò hết sức quan trọng trong lộ trình hội tụ kế toán. Nếu tất cả các quốc gia thuộc EU đều áp dụng IFRS như là các nguyên tắc được chấp nhận phổ biến quốc gia, thì các tập đoàn của Mỹ có công ty con đặt tại EU sẽ không cần phải lập báo cáo tài chính theo chế độ kế toán phức tạp. Tính đến tháng 5 năm 2006, có 8 quốc gia thuộc EU như Hy lạp, Ý và Đan Mạch …yêu cầu, hơn 10 quốc gia khác như Đức, Hungary … cho phép áp dụng IFRS cho các tài khoản thông thường của các công ty niêm yết, và chỉ có 3 quốc gia yêu cầu áp dụng IFRS cho báo cáo tài chính hợp nhất của các công ty không niêm yết. Đặc biệt, Đức và Hungary là các quốc gia cho phép áp dụng IFRS cho các tài khoản thông thường, nhưng các công ty vẫn phải lập báo cáo tài chính hàng năm theo chuẩn mực kế toán quốc gia. Rõ ràng một hệ thống kế toán “hai chuẩn mực” vẫn đang tồn tại ở nhiều nước EU: áp dụng IFRS cho các tài khoản hợp nhất của các công ty niêm yết trong khi các tài khoản thông thường áp dụng chuẩn mực quốc gia. Điều này dường như bắt nguồn từ mong muốn duy trì một hệ thống kế toán theo định hướng thuế ở nhiều nước Châu Âu. Có thể nói đây chính là nguyên nhân tác động rõ ràng đến sự hội tụ kế toán tại các quốc gia thuộc EU trong thời điểm bấy giờ và sẽ còn nhiều “sự va chạm mạnh” trong những năm sắp tới.
Hoa Kỳ
Là một quốc gia có hệ thống chuẩn mực kế toán phát triển cùng với sự lớn mạnh của thị trường chứng khoán, vai trò của Hoa Kỳ trong lĩnh vực kế toán nhận được sự hậu thuẫn rất lớn củ a Ủy Ban Chứng Khoán Hoa Kỳ (SEC). Dù đã có những chuyển biến tích cực trong việc chấp thuận các chuẩn mực quốc tế, đang tiến hành lộ trình gỡ bỏ quy định yêu cầu các công ty chuẩn bị niêm yết trên thị trường Mỹ phải chỉnh hợp báo cáo tài chính được lập theo IFRSs sang US GAAP với thời gian dự kiến sẽ hoàn thành trước năm 2009.
Việt Nam
Việt Nam đang trong tiến trình hội tụ kế toán quốc tế, nên cần phải nhận định đúng đắn tình hình để có những lộ trình thích hợp, đáp ứng phát triển kinh tế. Có thể thấy, hệ thống kế toán Việt Nam chịu tác động bởi nhiều yếu tố tụ hội từ môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý và môi trường văn hóa. Theo thời gian, mức độ chi phối, ảnh hưởng của các yếu tố đã dần hình thành hệ thống kế toán Việt Nam mang bản sắc riêng.
Hệ thống kế toán được qui định thống nhất từ chứng từ, sổ kế toán, tài khoản và các BCTC; hệ thống kế toán còn chịu ảnh hưởng của các qui định về thuế; hệ thống kế toán liên quan đến ghi nhận và đo lường đảm bảo tính tuân thủ thể hiện qua việc ghi nhận giá gốc đối với các tài sản, hạn chế các xét đoán theo giá hợp lý và mức độ trình bày và công bố thông tin trên BCTC còn hạn chế, mang tính bảo thủ. Như vậy, có thể thấy hệ thống kế toán Việt Nam do Nhà nước giữ vai trò quyết định, chi phối đến hệ thống kế toán, không những thế kế toán còn chịu ảnh hưởng bởi các qui định của thuế.
Từ thực trạng xu hướng hội tụ kế toán quốc tế kết hợp những đặc điểm cơ bản trong hệ thống kế toán Việt Nam, cho thấy khó có thể áp dụng toàn bộ IAS/IFRS cho hệ thống kế toán Việt Nam. Hệ thống IAS/IFRS dường như thích hợp đối với những quốc gia phát triển nhưng chưa phù hợp trong điều kiện hiện tại của Việt Nam. Do đó, trong giai đoạn đầu, nên tiếp cận theo xu hướng hoàn hợp theo khu vực mà cụ thể là khu vực đối với các công ty niêm yết. Đây là hướng đi mà nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Theo đó, hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam có thể bao gồm hai phần, một phần dành cho các công ty niêm yết, phần còn lại cho các công ty không niêm yết. Đối với các công ty niêm yết, chuẩn mực kế toán được thực thi theo các IAS/IFRS. Riêng đối với các công ty không niêm yết áp dụng các chuẩn mực kế toán Việt Nam hiện hành nhưng theo hướng giản lược những nội dung phức tạp trong chuẩn mực. Điều này thể hiện sự hài hòa, linh hoạt nhằm tránh những biến động nhưng đảm bảo cho tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. (Tạp chí Kiểm toán số 3, 2012) (Đức, 2000) (author N. , http://www.sav.gov.vn/)
3. Kế toán Quốc tế – Rules – based and principles – based approaches
Hầu như tất cả các công ty được yêu cầu phải chuẩn bị báo cáo tài chính như quy định của Hội đồng Chuẩn mực Kế toán tài chính (FASB).
Kế toán dựa trên luật lệ cơ bản là một danh sách các luật lệ chi tiết phải tuân theo khi chuẩn bị báo cáo tài chính. Nhiều kế toán đã sử dụng chuẩn mực dựa trên luật lệ cho những khách hàng tiềm năng của mình, bởi vì trong trường hợp không có những quy định họ có thể được đưa đến tòa án nếu phán đoán của họ về báo cáo tài chính không chính xác. Khi có những luật nghiêm ngặt được tuân theo, khả năng xảy ra các vụ kiện sẽ được giảm bớt. Đó là quy tắc làm tăng độ chính xác và giảm sự mơ hồ khi tác động đến các quyết định báo cáo tài chính. Tuy nhiên, sự phức tạp của các quy định có thể gây ra nhiều khó khăn trong việc chuẩn bị các báo cáo tài chính.
Kế toán dựa trên nguyên tắc cũng giống như những nguyên tắc kế toán chung được chấp nhận (US GAAP) và được sử dụng như khái niệm cơ sở về kế toán. Đó là những nguyên tắc cơ bản được đặt ra để đảm bảo có được những báo cáo tốt. Mặc dù một số trường hợp, các hướng dẫn hoặc quy định không phải lúc nào cũng được sử dụng. Ưu điểm cơ bản của kế toán dựa trên nguyên tắc là những nguyên tắc bao quát có thể được áp dụng thực tế cho một loạt các tình huống. Những yêu cầu chính xác có thể bắt buộc các nhà quản lý thực hiện thao tác trên báo cáo để phù hợp với những gì bắt buộc.
Một trong những điểm khác nhau của US.GAAP và IFRS là ở 2 cách tiếp cận này. US.GAAP dựa trên luật lệ, còn IFRS lại dựa trên nguyên tắc.
Trong một hệ thống kế toán dựa trên nguyên tắc, các lĩnh vực giải thích hoặc thảo luận có thể được làm rõ bởi hệ thống tiêu chuẩn được thiết lập, và cung cấp các trường hợp ngoại lệ ít hơn so với một hệ thống dựa trên luật lệ. Tuy nhiên, IFRS gồm những hướng dẫn mà có thể coi là bộ quy tắc thay vì bộ nguyên tắc. Tại thời điểm áp dụng IFRS, điều này đã dẫn các quan sát viên tiếng Anh bình luận rằng các tiêu chuẩn quốc tế đã thực sự dựa trên quy tắc (khi so với US.GAAP) nhiều hơn dựa trên nguyên tắc.
Sự khác biệt giữa hai cách tiếp cận này là trên phương pháp luận để đánh giá cách thực hiện kế toán. Theo US GAAP, các nghiên cứu tập trung hơn vào các tài liệu, sự chi tiết. Trong khi đó theo IFRS, việc xem xét các mô hình thực tế là tường tận hơn, điều đó sẽ dẫn đến sự không chi tiết bằng US.GAAP.
Trong thị trường toàn cầu ngày nay IFRS, có lợi thế hơn so với US GAAP. Thực tế là IFRS hoặc là cho phép hoặc yêu cầu trong hơn 120 khu vực pháp lý trong khi US GAAP chỉ có một. Nếu IFRS được yêu cầu tại Hoa Kỳ, các công ty sẽ cần phải xây dựng một khung đánh giá những tài liệu, quyết định kế toán để được thực hiện trong một môi trường kế toán dựa trên nguyên tắc.
Bài tổng hợp: Học viện APT
Học viện APT là tổ chức đào tạo và nghiên cứu chuyên nghiệp trong lĩnh vực Kế toán, Kiểm toán, Tài chính và Quản trị Doanh nghiệp.
Học viện APT thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo chia sẻ về định hướng nghề nghiệp từ những giám đốc điều hành, những nhà quản lý nhiều năm kinh nghiệm tại Big4 và những tập đoàn đa quốc gia.
Học viện APT đào tạo các khóa học về ICAEW CFAB, ICAEW ACA, Tiếng anh chuyên ngành Kế toán – Kiểm toán – Tài chình, Kiểm toán thực hành, Kiểm toán nội bộ, Hệ thống Kiểm soát nội bộ, Đọc hiểu và Phân tích Báo cáo tài chính…
Các khóa học tại học viện APT:
Học viên Nghiên cứu và Đào tạo APT
Địa chỉ: Số 9 Trương Quyền, Phường 6, Quận 3, TP HCM
Hotline: 0965 855 969 – 0978 182 404 (Mr Thắng – Phụ trách tư vấn)
Email: info@apt.edu.vn Website: www.apt.edu.vn Fanpage: facebook.com/apt.edu.vn